80 NĂM GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC – BÀI 3: NỀN GIÁO DỤC QUỐC GIA THỐNG NHẤT
Lượt xem:
Đại thắng Mùa Xuân 1975, non sông thu về một mối. Đất nước thống nhất đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng một nền giáo dục thống nhất. Giai đoạn 1975 – 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam, trong bối cảnh đất nước còn bộn bề khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, do bị bao vây, cấm vận và những hệ lụy của cơ chế quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp.
Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1975 – 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến, tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước. Giai đoạn 1979 – 1986, triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đời sống kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn, thử thách.
Thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước
Tháng 6 năm 1975, chỉ hơn một tháng sau ngày giải phóng, Ban Bí thư đã ban hành hai chỉ thị lịch sử (số 221-CT/TW và 222-CT/TW) về công tác giáo dục ở miền Nam. Các chỉ thị này đóng vai trò kim chỉ nam cho giai đoạn đầu, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó, nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp quản, cải tạo, nhanh chóng đưa giáo dục miền Nam trở lại hoạt động bình thường, cải tạo nền giáo dục cũ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xoá mù chữ và Bổ túc văn hoá tiếp tục được xác định là nhiệm vụ hàng đầu để nâng cao dân trí, tạo nền tảng đào tạo nhân lực cho chế độ mới.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình trò chuyện cùng các giáo viên và học sinh Trường Lê Ngọc Hân, Hà Nội (ngày 15/9/1976)
Ngành Giáo dục bắt đầu phát triển hệ thống, mở rộng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông, ưu tiên tiếp nhận con em nhân dân lao động.
Đồng thời thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý, quốc hữu hoá toàn bộ trường tư thục, đưa hệ thống giáo dục đại học vào dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Định hướng chiến lược này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IV (1976), xác lập nền tảng tư tưởng cho sự phát triển giáo dục: “Giáo dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”. Giáo dục được xác định là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, với mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển giáo dục “phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân”
Trong giai đoạn 1979 – 1986, Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba.
Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi.
Thứ nhất, thống nhất hệ thống phổ thông: xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc, trong đó, bậc phổ thông cơ sở 9 năm và bậc phổ thông trung học 3 năm, xoá bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại lễ tuyên dương và phát thưởng cho học sinh giỏi Thủ đô năm học 1981-1982 (ngày 01/6/1982)
Thứ hai, đổi mới nội dung và phương pháp: biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Thứ ba, thực hiện nguyên lý giáo dục mới “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, chú trọng tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh.
Thứ tư, thực hiện mục tiêu đào tạo, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.
Tuy nhiên, trước bối cảnh kinh tế – xã hội lâm vào khó khăn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) đã có cái nhìn thẳng thắn, thực tế và đặt trọng tâm vào chất lượng giáo dục. Quan điểm chỉ đạo cũng có sự điều chỉnh quan trọng như chuyển từ những mục tiêu cải cách vĩ mô, tham vọng sang việc tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc nhất, với phương châm phát triển giáo dục “phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân”.
Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn
Từ 1975 – 1978, ngành Giáo dục đã nhanh chóng tiếp quản và đưa vào hoạt động ổn định gần như toàn bộ hệ thống trường lớp ở miền Nam. Chiến dịch xoá mù chữ và bổ túc văn hoá được phát động rầm rộ trên toàn miền Nam.
Đến cuối năm 1978, các tỉnh thành phía Nam đã căn bản hoàn thành xoá mù chữ cho gần 1,4 triệu người, một thành tựu mang ý nghĩa chính trị – xã hội sâu sắc. Toàn bộ các trường tư thục bị giải thể. Nhiều trường đại học công lập được sáp nhập, tổ chức lại thành các trung tâm đào tạo đa ngành lớn (Đại học Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm…). Hệ thống đào tạo sau đại học (Phó tiến sĩ) cũng được hình thành từ năm 1976.
Những năm từ 1979 – 1986, kinh tế – xã hội đất nước gặp rất nhiều khó khăn đã tác động trực tiếp và nặng nề đến giáo dục. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục rất hạn hẹp (chỉ chiếm 3,5-3,7% tổng chi ngân sách). Nhưng trong bối cảnh đó, ngành Giáo dục đã triển khai thành công cuộc cải cách, thống nhất thành công hệ thống phổ thông 12 năm trên cả nước. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh nói chuyện thân mật với các đại biểu thiếu nhi về dự Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc lần thứ I tại Phủ Chủ tịch (ngày 21/8/1981)
Mục tiêu thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân được thực hiện thành công là thành tựu có ý nghĩa chính trị – xã hội sâu sắc. Việc xoá bỏ sự chia cắt về cơ cấu, nội dung và quản lý đã tạo ra một nền tảng pháp lý và tổ chức vững chắc cho sự phát triển giáo dục trong các giai đoạn tiếp theo.
Vào thời điểm khủng hoảng, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến đại học vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền, đảm bảo quyền học tập cho hàng chục triệu người dân, thể hiện sự ưu việt của chế độ.
Thành công trong xoá mù chữ góp phần quan trọng nâng cao dân trí, mặt bằng văn hóa chung, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.
Song song đó, giai đoạn này đã hình thành và thể chế hoá một cách hệ thống các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục xã hội chủ nghĩa, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của ngành trong suốt một thời gian dài.
(Tư liệu do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cung cấp)
Trung tâm Truyền thông và sự kiện – Bộ Giáo dục và Đào tạo